Trời Sài Gòn vào buổi chiều tháng tám hay có những cơn mưa làm dịu bớt cơn nóng oi bức. Nóng làm cho da khô rít tôi cảm thấy rất khó chịu. Tôi về Sài Gòn được hai ngày nay, hai ngày mưa liên tục vào buổi chiều nên tôi nằm ì trong khách sạn coi tivi chờ mưa tạnh. Ngày đầu ở SG tôi ăn hủ tiếu khô và cơm cá kho tại khách sạn, qua ngày thứ hai tôi mới ăn trái cây và uống nước dừa tươi còn nguyên trong trái. Bây giờ nằm trong phòng nhớ lại, lúc máy bay vừa hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhất rồi dừng hẳn lại, lòng tôi cảm thấy hồi hộp, lo âu điều gì viển vông ... Tôi đứng chờ để tới phiên trình hộ chiếu, anh nhân viên mặc đồng phục màu xanh lá mạ, mặt nghiêm nghị ngước nhìn tôi một cái. Tôi đưa passport lòng lại hồi hộp nữa...Người nhân viên ngước nhìn tôi, rồi nhìn vào tấm hình trong hộ chiếu im lặng, lạnh lùng không nói gì rồi trả lại passort cho tôi. Tôi nhìn chung quanh, nhân viên làm việc trong phi trường, hết chín mươi phần trăm là người miền Bắc. Nghe đâu được một chỗ làm nơi đây phải mất trên mười cây vàng, nhưng chỉ làm được vài năm thôi, chỗ làm của họ sẽ được “bán” lại cho một người khác . Tôi đi lung tung khắp nơi không sợ, ấy vậy mà khi về VN tôi lại... run. Khách sạn tôi đang ở đường Lý Thường Kiệt vừa được sửa mới lại, có cài máy quay phim để kiểm soát đặt ở mỗi hành lang. Đêm cũng như ngày có hai người đàn ông canh gát. Khách sạn này giá 25 đô một ngày, ở đường Phạm Ngũ Lão và đường Bùi Viện thì giá 10 đô. Đường Bùi Viện nhiều khách ngoại quốc đa số là dân da trắng. Nghe đâu có khách ngoại quốc đã mất máy vi tính cầm tay (laptop) và máy quay phim không phải kẻ lạ vào phòng mà chính là khách đến thuê phòng rồi thừa cơ phá cửa vào lấy trộm. Ngày đầu mướn phòng, tôi không dám đưa passport cho khách sạn giữ chỉ đưa bằng photocopy thôi, vật nào có giá trị gởi lại cho khách sạn mỗi khi ra ngoài. Về ở trên quê hương của mình mà lòng sao cứ nơm nớp, phập phồng như đến một xứ nào lạ hoắc lạ huơ, hay là tại mình lo xa quá nên…run ! Mưa còn lâm râm, không lẽ cứ ở hoài trong phòng, tôi nhờ nhân viên của khách sạn mua dùm chiếc áo mưa. Mười lăm phút sau tôi có chiếc áo mưa màu hồng, tôi vội bước ra khỏi phòng đi dạo chung quanh khu chợ Bến Thành. Đi dạo ban đêm nhất là các quán cóc trên các vĩa hè, giới buôn thúng bán bưng rất nhiều. Thành phố về đêm rất nhộn nhịp, nhưng rất xô bồ. Ban đêm dầu cho mưa, ruồi muỗi bên đống sình, người ta vẫn ăn uống ngon lành, kẻ ăn đứng, người ăn ngồi, ăn chồm hỗm dưới đất, nhìn họ ăn như một lối...thiền . “ Chợ Đêm” ở Bến Thành bắt đầu lúc sáu giờ chiều người ta che “tăng” để làm quán ăn, và nấu nướng ngay tại chỗ. Món thịt ếch thì còn …tươi được treo tòng teng trước “cửa” . Mấy nàng ếch đang bị treo cổ, đưa bụng trắng tinh sắp bị chị bếp đem xuống chặt đầu, lột da tại chỗ rồi bỏ vào chảo dầu để làm khoái tỷ cái lưỡi của bợm nhậu. Nằm san sát “quán” ăn là các gian hàng bán áo quần, đồ lưu niệm... Đôi chân của hai người ngoại quốc bất chợt đập vào mắt tôi dưới ánh đèn. Hai vế chân của họ bị muỗi cắn nát đến sưng u, đỏ hỏn, tôi nhìn xuống đôi chân mình, may thay chỉ có hai dấu răng của muỗi thôi. Mỗi khi ra đường, tôi thoa thuốc chống muỗi từ bắp chân xuống đến bàn chân, ấy vậy mà muỗi nó lại chui tuột dưới lòng bàn chân cắn Việt kiều một phát cho bỏ ghét mới thôi ...Mà lạ! ngồi uống nước, mấy con muỗi cứ nhắm chân tôi mà cắn, ngứa ngấy không chịu được, trong khi những người ngồi bên cạnh thì không bị cắn. Hình như muỗi nó cũng biết phân biệt cái “mùi” da của người ở nước ngoài. Không tin quý vị về Việt Nam mặc quần cụt ngồi quán sẽ biết ngay! Trời về khuya(dầu có mưa) cũng có nhiều khách đến ăn đêm. Mưa lâm râm ngồi nhậu nghe mưa rơi lộp độp trên lều vãi là một điều thú vị. Tạnh mưa, có mùi âm ẩm dưới đất bốc lên, nhưng khách vẫn ăn uống tự nhiên, vui vẻ, hình như họ quen rồi. Tôi say sưa đứng nhìn chị bếp xào nấu giữa bếp lộ thiên, bỗng bị muỗi cắn một phát đau điếng vội vàng bỏ đi, vừa đi vừa quay cổ nhìn những món thịt, tôm, ốc, trứng chưng bày trong tủ, được bao che bởi một miếng kính phía trước và hai bên, tôi thấy rõ muỗi và bù hong bu chung quanh đống thịt nguội trong lồng kính. Khách nước ngoài nếu ăn không quen sẽ bị trúng độc, tiêu chảy, rồi ói mửa, ruột gan đau đớn như muốn bung ra ngoài là vậy. Ngày cũng như đêm xe và người chật ních. Xe gắn máy, xe hơi và người đi bộ trên đường, bất kể đèn đỏ. Các cô gái đi xe máy, xe đạp sợ nắng ăn da nên đội mũ tai bèo, găng tay gần nách, mặt che kín chỉ chừa đôi mắt, thoạt nhìn giống như đàn bà của xứ Ả Rập. Hôm nay, tôi cũng muốn đi tìm cảm giác lạ nên cũng nhảy lên xe gắn máy, ngồi phía sau thằng em họ để nối đuôi chạy theo đoàn xe để hít thở không khí bụi đường, mắt rát vì bụi, hai mũi bụi bám vào đen thui. Ngồi phía sau xe Honda thỉnh thoảng tôi hét ái ái rồi co chân lên tới cằm, sợ chiếc xe bên kia như muốn húc vào chân mình trong gang tấc... Khói xe và bụi trong rừng người tạo thành một khung cảnh hỗn độn vô trật tự giữa trưa hè nóng rát. Mồ hôi nhễ nhại trên mặt mỗi khi xe ngừng lại, tôi thấm ướt không biết mấy cái khăn giấy. Khăn giấy ở Việt Nam chùi một cái đã bỡ ngấy, vụn nát. Đang trên đường, bỗng một người đi xe ngược hét lớn: “ Có công an anh ơi !” thằng em định quay xe lại thì đã trễ, anh công an đứng ở góc đường, đưa tay ngoắc bảo nó tấp xe vào lề. Thằng em lẩm bẩm: “Chết! đi ngược chiều rồi, đưa cho em tờ trăm xanh”. Tôi ngồi phía sau vội nhét tờ “trăm xanh bác Hồ” vô túi nó. Xe ngừng, anh công an nói: “Anh có biết đã vi phạm luật đi đường không ? ” Thằng em lí nhí: “Dạ biết! ”Anh công an hỏi “Biết tại sao anh đi ngược!” Tôi tiếp lời thằng em:“ Dạ, vì nó không thấy anh đứng đây, nếu thấy anh, nó không dám vào đâu !” Anh công an bật cười, thằng em tôi cười theo và nhanh tay nhét vội tờ trăm xanh vào tay anh công an. Anh công an ra dấu biểu nó đi đi ... Xe Honda của Trung quốc bảy triệu đồng một chiếc, (chừng 450 đô) Honda Nam Hàn thì mười triệu (chừng 700 đô) cũng còn rất nhiều người nghèo, nên việc mua xe Honda không phải là dễ...Hàng nội hóa của Trung quốc nhất là áo quần bán ở VN rẽ rề, nhưng sờ đến máy móc, ví dụ như máy ảnh, máy computer thì giá mắc hơn ở nước ngòai. Một tuần ở Sài Gòn, đi đâu tôi cũng đi bằng taxi, đường thì gần mà mấy ông taxi chạy vòng thành đường xa, một tuần lễ tính ra gần 300 đô làm tôi giật mình nên phải ngưng ngay việc đi taxi, cũng như từ phi trường đến khách sạn tôi đã phải trả gấp hai lần tiền. Tôi mướn xe Honda mỗi ngày 5 đô nhưng họ đòi phải giữ passport. Mướn xe có mấy trăm đô mà họ đòi giữ passport của mình. Cuốn sổ passport là “linh hồn”, chớ dại mà đưa, lỡ sau đó họ nói passport mất rồi thì mình tính sao ? Tôi luôn luôn có phoyocopy trong xách, cần hỏi là có sẵn. Trước khi về VN tôi cũng đã photocopy vé máy bay và passport gởi đến tòa Đại sứ Pháp ở VN, trở ngại gì thì mình cũng đã có hồ sơ trong sứ quán Pháp rồi. Khi đến Việt Nam tôi không bị một trở ngại nào, chỉ bị “Việt gian” (từ để gọi những người Việt buôn gian bán lận) trong giới thương mại đụng đâu “chém” đó và giới taxi cứ chạy vòng vo khi trả tiền méo...mồm luôn. Việt Nam bây giờ là thời đại của các loại máy móc nên đã có những siêu thị lớn, nhỏ đúng tiêu chuẩn quốc tế. Tôi vào một siêu thị lớn có mấy anh giữ an ninh đứng kiểm soát không cho khách đội mũ và mang xách vào, (phải gởi tại quầy ở ngoài). Giá bán ghi sẵn, gấp hai, lần so với ở ngoài nhưng khách bằng lòng vì không sợ bị mua hớ… Tôi sắp đi Thủ Thiêm nên mua trái cây và vài ký thịt, sau khi trả tiền xong, chị bán hàng mời mua dùm nốt phần thịt còn lại. Chị chỉ cái cân tôi thấy rõ 650/gr, nhưng chị tính tiền 500/gr thôi. Khi về, người nhà đem cân lại chỉ còn 300/gr. Chị bạn dặn, lần sau không nên đi chợ một mình phải có người nhà đi theo. Qua Thủ Thiêm phải ngang một con sông, gần bờ, nước sông là bùn sình, đục đen, mùi hôi nồng nực xông vào mũi như muốn ọe ra, tôi phải nín hơi chờ thuyền xa bờ mới thở. Qua hôm sau, tôi đi tour Cần Thơ. Từ SG xuống Cần Thơ bằng xe bus. Trên chuyến xe toàn là dân du lịch người Pháp, và người Đại Hàn. Xe ra khỏi thành phố hai bên là đồng ruộng và nhà của nông thôn, thỉnh thoảng có ngôi biệt thự và những toà nhà cao ốc chen vào giữa cánh đồng tôi nhìn chẳng thấy hợp mắt tí nào mà thấy…kỳ kỳ. Một người khách trên xe chỉ tòa nhà cao ốc nói với tôi : « Người bà con tôi mua một căn trong những ngôi nhà như vậy, ở được một tuần, nước ở cầu tiêu tràn ra ngoài, thợ đến sửa nhưng nước trong toilette vẫn tràn ra, rốt cuộc ở không được phải dọn ra ». Anh hướng dẫn viên nghe khách nói, anh tiếp lời : « Tôi cũng có nghe chuyện này, ở VN mình xây nhà thì không thua gì người ngoại quốc, nhưng hệ thống đường cống thì chưa đạt tới đích, đường cống vệ sinh không có nơi để tống ra, nên nước phế thải phải dội ngược trở lại là vậy ». Trời, nếu vậy thì ai dám mua nhà cao ốc để ở ! Đến Cần Thơ, chúng tôi phải đi qua sông trên một chiếc tàu để vào vùng làm kẹo dừa. Lần đầu tiên tôi thấy những ngôi nhà bè trôi bùng bình trên mặt nước. Nước sông vàng đục, người ta nói nước sông ở đây đục quanh năm. Những căn nhà trên sông có người ở tại đó, dưới sàn nhà là ao nuôi cá. Tắm, giặt, vệ sinh thì được anh hướng dẫn viên cho biết đa số người ta vào bờ, có người thì bơi thuyền nhỏ ra xa, người làm biếng thì vệ sinh ngay tại chỗ. Chúng tôi đổi tàu để đi trên chiếc ghe nhỏ để vào những con kênh. Đường vào con kênh dài hun hút, hai bên bờ có hai hàng dừa cao khoảng hai thước, họ gọi là dừa …lửa, hỏi tại sao gọi là dừa lửa thì chị chèo ghe nói là cây dừa…lùn hai thước nên người ta gọi là dừa lửa ! Thuyền chèo sâu vào trong như đi vào hang thiên thai, khung cảnh hai bên con kênh thật nên thơ. Chúng tôi vào thăm dân bản xứ tại đây, họ ở trong một làng chung quanh trồng toàn là dừa. Dân ở đây sinh sống bằng nghề làm kẹo dừa được làm bằng tay. Chúng tôi thấy dừa xay ra lấy nước cốt nấu với đường, vừa nấu, vừa quậy khi nào thật keo rồi đổ ra, họ lấy con dao phả trên miếng kẹo dừa cho bằng phẳng như tấm ván, rồi để nguội 15 phút, cuối cùng, cắt kẹo ra bằng tay từng miếng nhỏ. Kẹo gói trong một tờ giấy gương trắng mỏng như sương sắp vào từng hộp, mỗi hộp một ký. Dừa còn làm dầu để thoa tay chân và tóc để khỏi bị khô...Tôi cùng các du khách mỗi người mua vài gói kẹo để làm kỷ niệm. Đến mua tận gốc mà mắc gấp hai lần giá bán ở chợ. Tây ba lô dưới mắt người Việt ở trong nước là dân nghèo, nên giới con buôn không thèm chào mời. Họ nhìn khách đeo ba lô du lịch kiểu này nên coi thường lắm! Một cô gái đi theo trong nhóm được mướn riêng để thông dịch cho mấy người Đại Hàn, cô ngồi gần bên tôi, cô hỏi tôi là Việt kiều ở Mỹ hả ? tôi gật đầu nói Việt kiều từ miền Trung Việt vào đây. Cô gái nhìn tôi nói chị giống Việt kiều ở nước ngoài về. Bỗng cô đưa tay chỉ nhóm khách phía trước từ trên ghe vừa bước lên bờ, cô trề môi: - “ Coi tụi Tây ba lô nghèo !” - Tôi ngạc nhiên: “Làm sao em biết họ là Tây… nghèo ?” Cô gái có vẻ kinh nghiệm về nghề nghiệp, nhếch môi cười tự tin: - “Vì Tây hay mang cái xách sau lưng, người Mỹ đâu có mang “ba lô” vào rừng đâu…” - “ Ủa, bộ khách du lịch Mỹ không vào tận đây à ? Coi chừng không phải người Mỹ mà là người Âu Châu, Bỉ, Đức, Anh…riêng dân Tây rất thích thích Việt Nam mình”. - Em thấy tụi Tây nó nghèo quá chị ạ, nó chỉ ở khách sạn rẻ tiền… không bằng mấy ông Mỹ ở toàn là ở sách sạn 5 sao… - Đi du lịch ở lâu thì phải biết tính chứ ! mà coi chừng, mấy ông Mỹ ở khách sạn 5 sao họ đi theo Tour du lịch, hoặc là nhân viên đi làm việc. Việt kiều mình cũng ở khách sạn 5 sao vậy, nhưng họ ở 5, 7 ngày thôi, hoặc là những người này về VN lần đầu tiên ở khách sạn cho bảo đảm. Còn những nhóm người ngoại quốc, vai ba lô đi tận vào thôn quê hoang vắng, chong lều ngủ đêm để tìm cảm giác lạ, một số người ngoại quốc họ thích tìm đến ở những thôn dã, thích ngủ nhà tranh bên rừng, hay là họ muốn tìm hiểu một cái gì đó! - Ồ, vậy hả chị! Người đời cũng lạ! Cái lớp bề ngoài đôi khi cũng dễ đánh lừa được người ta. Về Việt Nam ai thích làm đại gia sẽ được o bế rất tận tình… - Chị hỏi em nè, Việt kiều Pháp và Việt kiều Mỹ em thấy có gì khác biệt ? - Dạ, có khác biệt chớ ! em thấy Việt kiều ở Mỹ giàu hơn việt kiều Pháp, nhưng em có cảm tình với Việt kiều Pháp hơn. - Tại sao? - Việt kiều Pháp lịch sự, Việt kiều Mỹ phách lắm! - Cũng tùy người thôi! - Đa số chị ạ ! Nói thiệt với chị em cũng không thích nước Mỹ đâu ! Chà, nhỏ này xạo quá ! cũng phách lối như ai…người Mỹ thì gọi là ông, còn Tây thì kêu là nó. Tôi nhìn cô ta không chớp mắt: - Việt kiều Pháp lịch sự, nhưng trong lòng họ cũng phách lối lắm đấy! À em bao nhiêu tuổi rồi! - Dạ em năm nay 34 tuổi chị ạ, em đã tốt nghiệp đại học, lúc trước em học tiếng Nga, và tiếng Tàu, sau này em nhảy qua học tiếng Anh để đi làm thông dịch cho các hãng du lịch, ví dụ như hôm nay em đi theo đoàn du lịch này chỉ thông dịch riêng cho hai ông người Đại Hàn này thôi. Hiện giờ em đang học thêm tiếng Pháp, chia động từ tiếng Pháp khó quá, tuổi em cũng đã …già rồi, khó nhớ ! Già thật, nhìn cô gái 34 tuổi già dặn tuổi như 38, 40…Tôi nhìn cô như cảm thông một cái gì đó rất gần gũi với mình. Tôi hỏi: - Bao nhiêu lần em đã thông dịch cho người Mỹ da trắng rồi ? - Chưa chị ạ, em làm thông dịch hai năm nay, gặp đủ người ngoại quốc Á Châu, nhưng chưa gặp được người Mỹ da trắng, chỉ toàn là người Mỹ da vàng thôi… - Vậy à, thế sao vừa rồi em nói người Mỹ ở toàn khách sạn 5, 7 sao ? - Dạ, em nhìn người da trắng đoán là người Mỹ …
Oo0
Trưa hôm nay , tôi đến đường Nguyễn Huệ để đóng lại cái đế giày. Tôi ngồi trên cái ghế thấp thè lè sát đất bên cạnh người làm giày ở bên lề đường nhìn người qua lại nườm nượp. Đóng cái đế giày với giá 15.000 đồng một đôi (khoảng 1 đô) tôi đóng hết ba đôi giày vừa mới mua. Trong khi chờ đợi tôi hỏi chuyện anh thợ giày: “ Làm nghề này lâu chưa anh ? ” . “ Trên hai mươi lăm năm rồi cô” . “ Có bị đóng thuế không ?”. “ Nghề làm chui mà thuế má gì cô”. “ Làm sờ sờ vậy mà gọi là chui sao ?”. “ Khi nào thấy “mấy ổng” tụi tôi ôm đồ chạy thấy mồ đó chớ !”. “ Chỗ làm của anh có người tới dành thì sao ?”. “ Thì mình năn nỉ “họ” trả lại chỗ cho mìnhï, vảû lại họ biết chỗ này của mình rồi “nó” không chiếm đâu”. Tôi nhìn anh thợ giày trẻ tuổi đang ngồi phía trước, có khuôn mặt khôi ngô, trên tóc có nhuộm vài sợi tóc màu vàng, rất hợp thời trang đang làm mấy chiếc giày của tôi một cách thong thả, không có gì là vội vàng, mặc dầu bên cạnh còn nguyên một xách giầy chưa làm xong. Cứ ba mươi phút có khách đưa giày đến làm. Tôi nhìn người đánh giày trẻ tuổi rồi quay sang hỏi anh đánh giày lớn tuổi: “Đệ tử của anh đó hả ?”. “ Lúc trước là đệ tử, bây giờ tôi phải trả lương cho nó”. “Bao nhiêu mỗi tháng ?”. “ Một trăm ngàn đồng mỗi ngày” (khoảng 5 đô ) “ Anh ngồi đây thấy có gì lạ không ?”. “ Lạ chứ !”. “Lạ như thế nào?”. “Lạ là bây giờ ai muốn bán buôn cái gì cũng được, bán gì cũng có người mua, tôi ngồi vá giày ở đây, nói thiệt với cô tôi đã làm được cái nhà rồi…à mà sao cô hỏi kỹ quá vậy, nhà báo hả ? Thôi, tôi không nói đâu, lần trước có một anh đến hỏi rồi đem chuyện và đưa hình tôi nói lên báo. Thôi, tôi không nói nữa đâu ... Nghe anh vá giày nói như vậy, tôi có hỏi nữa anh ta cũng không nói, thôi thì nhìn ông đi qua bà đi lại cho hết thời giờ trong khi chờ lấy mấy đôi giày. Đang lúc này thì có người đẩy xe bán nước dừa đi ngang qua, người đi đường xúm lại mua, trời nóng quá mà, tôi cũng đến mua một trái giá với giá 4.000 đồng. Bỗng một người đàn bà to lớn, mặt rất dữ tợn, từ trong quán bước ra, đầu đội nón, mặc bộ đồ bông đỏ, chống nạnh la lớn: “ Ê ! thằng kia ! Đ.M mầy bán dừa phá giá phải không ? Anh bán dừa vừa thối tiền cho khách vừa trả lời: “ Bốn ngàn một trái mà phá giá ? bán bốn ngàn cũng như chị .. .” Người đàn bà trợn mắt hét : “Đ.M, dừa ở đây tao bán năm ngàn, mày bán bốn ngàn mà nói không phá giá hả ? Mày còn đứng đó tao đập bể nát xe bây giờ.” Thấy người đàn bà hung tợn chưởi anh bán đừa, mấy người khách không dám mua họ liền bỏ đi. Người bán dừa cũng vội đẩy xe đi một mạch. Tôi hỏi nhỏ anh làm giày: “ Có phải chỗ này của bà ta không ?” “ Hỏng có ! Người ta bán ngoài đường, ai muốn mua thì mua ! Mấy bà ở chợ dữ như chằng cô ơi ! Đang nói chuyện thì có khách đến lấy giày, người khách hỏi trả bao nhiêu anh làm giày nói 5.000 đồng, A! giày của tôi cũng đóng đế giống nhau mà phải trả 15.000 đồng một đôi, so ra hơn gấp ba lần .. . Trên con đường về lại khách sạn thì tình cờ gặp lại người bạn Nguyễn Thiên Chương của thời thơ ấu, bây giờ là họa sĩ chuyên trình bày các bìa sách báo ở Sài Gòn, anh đưa tôi đi uống cà phê bên lề đường trong một góc phố, ít người và xe qua lại. Tôi không thích ngồi quán cóc, vì cái ghế thấp thè lè và không có chỗ dựa lưng. Ghế thấp ngồi thật khó chịu cho cái bụng vô cùng. Độ mười lăm phút thì nhà thơ Phạm Thiên Thư (tác giả bài thơ Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng, được Phạm Duy phổ thành nhạc) nổi tiếng trước năm bảy lăm. Nhà thơ bây giờ bị điếc một tai nên nói chuyện phải nói lớn, hoặc kề sát gần tai. Bây giờ ông hơi lừng khừng, viết một câu văn không thành, phải có người đọc thì ông viết được. Nhà thơ Phạm Thiên Thư mở tiệm cà phê lấy tên Hoa Vàng, tiệm nhỏ nhưng rất xinh, có bàn ngồi uống cà phê ở trên sân thượng rất trữ tình. Chỗ tôi ngồi uống cà phê bên lề cũng là của ông. Ngồi bên này đường nhìn sang bên kia đường là tiệm cà phê Hoa Vàng. Ông tặng tôi tập thơ Tự Điển Cười dày gần bằng một gang tay nặng quá chừng. Ông hỏi Nguyễn Thiên Chương viết ký tặng làm sao ? Anh Chương đọc, ông ghi lại y chang. Khi tôi chào ông để ra về ông nói: “Nghe anh Chương nói cô làm thơ tình hay lắm hả ? Đọc vài câu nghe chơi”. Tôi kề sát vào tai ông đọc nhỏ (trích bài thơ Yêu Em): ... .. . .. . .. . . Hãy cọ sát cho châu thân nóng bỏng Đôi vòng tay chao động ngực no tròn Đưa hồn em cùng ra biển lên non Hương da thịt còn tê mê đầu lưỡi . Nghe xong, ông kêu “Uùi giời ơi! ui giời ơi!” rồi khoái chí cười hô hố đến híp mắt, ông nói lần sau nhớ đem bài thơ này cho ông xem. Sau này, tôi trở lại lần thứ hai từ giã ông để về Pháp. Ông nói:“ Bây giờ già rồi đâm ra lú lẫn, làm ơn đọc tôi nghe mấy câu thơ tình của cô cho già tỉnh lại chút nào chăng ?” Tôi tinh nghịch kề môi vào tai ông nói nhỏ: Ước gì em hóa thành mèo Để em cào cấu leo trèo lên anh .. . .. . Ước em làm nắng thế mưa Để anh khát nước sáng trưa đến chiều .. . Oâng nhà thơ nổi tiếng một thời,vừa nghe xong mấy câu thơ như bị ai thọt lét, ông hét lớn: “Ui giời ơi, ui giời ơi” rồi cười ré lên khanh khách. Tôi lại kề sát vào tai ông thủ thỉ: Bây giờ em vui em hát reo cười Đang run rẩy trên làn môi đợi cắn …. Lại “ui giời ơi, ui giời ơi”, ông vừa cười ha hả vừa chu cái môi trên hàm răng hô của ông, trông ngồ ngộ đến tức cười. Tôi cảm thấy hạnh phúc khi biết ông đã đồng cảm mấy câu thơ trên, và tôi cũng rất may mắn được gặp một người mà tôi từng ái mộ từ lâu. Ông xuề xòa, tính nết dễ chịu, tôi càng quý mến thêm, không ngờ gặp ông thật tình cờ, âu trời cũng không phụ lòng người. Xin từ giã nhà thơ, ông để lại trong tôi một ngày hạnh ngộ nhiều kỷ niệm thân thương khó quên. Mấy ông bạn ở Việt Nam có cái nhìn hơi lập dị, thường đưa tôi đi cà phê ở quán cóc. Một lần khác, ngồi quán cà phê tình cờ trúng ngay quán cóc con trai họa sĩ Thái Tuấn, Thái Tuấn hiện cư ngụ tại Pháp tôi đã có gặp, lần này không ngờ gặp người con trai của ông ở đây. Mấy ông họa sĩ này không hiểu họ nghĩ cái chi mà sáng nào cũng khoái ngồi trên cái ghế tí tẹo gần sát mặt đất, ông đi qua, bà đi lại, nhìn nhìn, ngó ngó, tôi không được tự nhiên tí nào. Hôm sau, tôi gặp nhà văn Văn Quang ông đưa tôi đến tiệm cà phê có máy lạnh, vì trời Sài Gòn buổi sáng mà đã thấy nóng rồi. Văn Quang là nhà văn nổi tiếng trước năm bảy lăm, có nhiều tác phẩm được làm thành phim, hiện ông cộng tác với ba tờ báo ở nước ngoài. Hai tuần ở Sài Gòn sang tuần thư ba tôi chuẩn bị ra ĐàNẵng. Đà Nẵng là nơi tôi sinh ra và lớn lên, ai ra đi cũng mong có ngày về thăm lại làng thôn của mình, nhưng bây giờ làng xưa lối cũ không còn nữa. Tôi ngạc nhiên đứng nhìn ngôi làng xưa bây giờ hoàn toàn đổi khác. Ngôi làng có ruộng đồng cây xanh lá, lưa thưa vài mái nhà bây giờ biến thành một khu nhà xây cất chằng chịt theo từng lô đất có giới hạn, không có nhà nào có dư đất để làm vườn. Những ngôi nhà cũ đã phá bỏ, nhà của ba mẹ tôi cũng dọn đến ở nơi khác trên một miếng đất nhỏ xíu. Nhà nào bề ngang cũng năm thước đất, bề dài hai mươi lăm thước. Đất ít nên người ta xây cao lên ba, bốn tầng nhìn căn nhà như cái hộp hình chữ nhật. Tôi đi thăm núi Ngũ Hành Sơn ở Non Nước, bây giờ lên núi phải mua vé. Chùa chiền, hang động ở đây vẫn còn nguyên theo năm tháng. Những bức tượng thật đẹp do những bàn tay nghệ nhân điêu khắc thật tinh vi sắc sảo thể hiện trong thần hồn linh động. Tôi mua một tượng Di Lặc bụng phệ ngồi xếp bằng cười toe toét, nhìn thật là vui ai cũng phải cười theo . Tôi lại mua thêm miếng mề đay bằng đá xanh Phật Bà với giá 60.000 thay vì 6.000 đồng Việt , lại bị mua hố vì đá giả . Lèo lên đỉnh núi Non Nước tôi ngắm nhìn ngôi chùa xưa dưới bóng cây cổ thụ già, bên trái ngôi chùa có tượng Phật to tướng màu trắng, đôi mắt nhắm nghiền với nụ cười thật từ bi. Ngôi chùa này mỗi ngày đầu xuân của mùa tết, tôi thường đến đây lễ Phật xin lộc đầu năm. Nhìn ngôi chùa lòng bỗng dưng bồi hồi xúc động. Hôm nay, không phải là ngày cuối tuần nên chùa vắng hoe dưới cái nắng buổi trưa. Chung quanh thật yên lặng nghe rõ tiếng lá rung rinh và tiếng sóng biển ở dưới chân núi. Bỗng một bà già ốm teo nhưng có vẻ nhanh nhẹn, mặc bộ áo quần màu đen bông vàng, tay cầm cây chổi từ trong chùa bước ra sân cúi người quét quét lá rơi. Bây giờ tôi vẫn còn nhớ khuôn mặt của bà, khuôn mặt sạm nắng với lớp da nhăn nheo, nhưng mắt bà sáng quắt, bà già rụng hết hàng răng phiá dưới, nói chuyện lúc nào cũng có nụ cười trên môi. Bà quét vài ngọn chổi dưới sân, thấy tôi, bà ngưng quét , bà dựng cây chổi bên tượng con sư tử rồi đến bên tôi. Tôi lên tiếng trước : - Dạï chào bác ạ ! Bà già ngườ bé tí, đầu bà cao chỉ tới ngang tới vai tôi, bà cười : - Con ở đâu về ? - Dạ con ở Huế về. Đôi mắt bà như cười : - Rứa hả, về đây lâu chưa ? Tôi không trả lời câu hỏi của bà mà hỏi lại : - Bác ở trong chùa ? - Ừ, ở đây để giữ chùa, và quét lá rơi mỗi ngày hai lần. - Có đông người ở trong chùa không bác ? - Ít lắm, người ta đi làm hết, chỉ co ùmấy thầy thôi. - Bác ở luôn trong chùa hả ! - Bác ở đây để lo cơm nước cho mấy thầy. Nè, con ra phiá sau coi cảnh đẹp lắm, đẹp lắm… Nói rồi bà cầm tay tôi dẫn đi ra phiá sau chùa. Phiá sau chùa là ngọn núi cao, có một đường đi vào bên trong hang động, càng đi đường càng tối, những bức tượng hai bên trong hang đủ loại, mỗi bức tượng có một lịch sử , bà già đi trước vừa đi, vừa chỉ vào những pho tượng vừa giải thích cặn kẻ, bà nói không vấp một chữ. Nghe bà nói tôi phục quá, tôi có cảm tưởng bà là một giáo sư về sử địa mà thoạt nhìn, ai cũng tưởng là bà già trầu. Sai bét ! Càng vào sâu càng tôí tôi bắt đầu lo ra nên không chú ý lời bà nói, phần bà, bà nói, phần tôi dạ dạ luôn miệng. Hang động không có ai chỉ có tôi và bà. Tiếng nói bà oang oang dội lại trong đá lạnh làm tôi sợ điếng người. Tôi sợ, sợ đủ thứ…vắng vẻ như thế này chết ở đây cũng chẳng ai hay biết, muốn đi ra nhưng chưa chắc gì tôi nhớ đường để trở ra. Tôi nhớ rõ lắm, ngày xưa tôi thường đến ngôi chùa này nhưng đâu có ai biết phiá sau ngôi chùa có cái hang động tận bên trong đâu. Tôi hỏi: - Hang này mới có đây hả bác ! - Không, có từ lâu rồi, mấy chục năm nay lận. Ngày xưa ở trong này là chỗ ở của …bộ đội . - Bác à, cháu muốn ra ngoài …lễ Phật. - Khoan đã, vào đây mà coi tượng của Huyền Trân công chúa, khi Huyền Trân đi ngang qua hòn núi này rồi dừng lại ở đây, người ta tạc tượng để kỷ niệm. Cháu biết đó, nơi đây cả làng chuyên môn về nghề đúc tượng, nên tượng ở đây nhiều vô số kể. Còn tượng này là vua… - Dạ, cháu muốn ra ngoài lễ Phật, xin phép bác… - Được, để bác đưa cháu đi mà, à… nè con có bạc lẽ không cho… bác một ít để ăn trầu. - Dạ, dạ có đây bác… Tôi vội móc túi lấy tiền đưa cho bà cụ, tôi không biết là bao nhiêu, tôi chỉ mong ra được ngoài hang động thôi là sung sướng rồi, đứng ở trong hang đá này sao tôi hồi hộp quá…Hú hồn ! Ra ngoài hang động thằng em họ đang dáo dác nhìn quanh, thấy tôi, nó mừng húm nói chị đi đâu mà em tìm quá chừng, vừa thấy chị đứng trước chùa đùng một cái chị biến đi đâu mất, em định đi xuống núi tìm chị đó ! Thôi đi về… Suốt trên con đường trở về nhà tôi suy nghĩ về bà cụ trên sân chùa, tôi phục bà quá, không biết bà là ai mà có trí nhớ thật dai và giảng giải như một giáo sư về sử một cách chuyên nghiệp vậy ! Ngày hôm sau, tôi vào phố cổ Hội An tôi càng ngạc nhiên. Phố cổ Hội An lịch sự trong đằm thắm yên lặng. Đường phố có lớp lang đâu vào đó không buôn bán xô bồ, và qua cách trình bày các sản phẩm đã thể hiện về nghệ thuật, nhiều nhất là các gian hàng về hội họa, và đồ thủ công nghệ rất khéo tay. Các nữ chủ nhân lớn tuổi đa số nói được tiếng Pháp. Tôi cảm thấy có cái gì đó rất gần gũi với mình. Hội An có bờ biển cát trắng là Cửa Đại, sóng nhẹ nước trong, xuất phát từ cảng du lịch đến với thắng cảnh thiên nhiên Cù Lao Chàm 20 phút bằng tàu cao tốc, tàu thường thì mất một tiếng đồng hồ. Cù Lao Chàm đã có cách đây 300 năm tuổi nằm giữa đại dương mênh mông cách phố cổ Hội An 19km về phía đông. Từ thế kỷ mười lăm trở về trước, người Champa là chủ nhân của Cù Lao Chàm. Thế kỷ mười sáu người Việt đã có mặt và định cư ở đây. Dân số chừng 3.000 người, sinh sống bằng nghề biển tại hai bãi lớn nhất: Bãi Làng và Bãi Hương. Hồn Cù Lao rất phong phú, quanh đảo thật là tuyệt vời cả một đại dương tĩnh lặng, chỉ nghe tiếng sóng vỗ vào bờ cát mịn hòa nhịp với tiếng gió như cõi thiên đường hoang sơ, đã gợi lòng khách nhiều bâng khuâng lưu luyến đến lúc ra về có chút quà: Bánh su xê, Bánh ít lá gai do bàn tay của người trên đảo làm ra. Cù Lao Chàm đã được bình chọn làm khu bảo tồn biển thứ hai tại Việt Nam, sau Hòn Mun (Nha Trang, Khánh Hòa) . Đến Hội An, tình cờ tôi gặp lại họa sĩ Từ Duy trong một tòa nhà lớn với hai tầng lầu treo đầy tranh ảnh của anh nằm ngay trung tâm thành phố . Từ Duy đã từng được mời sang Paris và Hồng Kông triển lãm tranh ảnh nghệ thuật, đặc biệt tại Paris được phu nhân Tổng Thống Mitterant mua một bức tranh để kỷ niệm với người họa sĩ tài hoa. Từ Duy tâm sự đó là một vinh hạnh lớn trong cuộc đời một người nghệ sĩ trong chuyến đi ở hải ngọai vừa qua. Trong dòng máu đã có dấu ấn nghệ sĩ thì cái nhìn nghệ thuật sẽ khác hơn người thường. Gặp anh, tôi nhớ lại lần gặp anh ở Paris, tôi đã mến cái vẻ “bụi” của anh, râu ria bồm xồm, áo quần xốc xếch với cái túi vải một bên vai trong dáng dấp của một một nghệ sĩ. Hôm nay, gặp lại anh vẫn áo thô quần nội hóa, nhưng không mất đi cá tính hài hước nghệ sĩ có duyên của anh. Tôi và Từ Duy ra Đà Nẵng ngay buổi chiều hôm đó để gặp họa sĩ Vũ Dương. Vũ Dương cũng đã từng đi Paris với anh triễn lãm tranh. Vũ Dương có cái nhìn về nghệ thuật cao, nhưng anh đạo mạo và áo quần đâu thẳng nếp đâu vào đó, nhìn anh như nhà mô phạm hơn là một nghệ sĩ. Ba chúng tôi ngồi dưới hàng thông bên cạnh biển Nam Ô ôn lại dĩ vãng những ngày hai anh gặp tôi tại Paris. Nhưng hôm nay tôi quá mệt, ( vì đi nhiều, và trời nóng quá) trước gió biển mát mẻ, tiếng lá thông vi vu, hai mắt tôi cứ sụp xuống, cố nhướng mắt lên nhưng cũng không được, tôi nói hai anh tiếp tục nói chuyện chờ tôi ngủ một tí. Nói xong, tôi nằm co quặp trên cát ngủ liền một giấc. Tỉnh dậy, người vẫn còn mệt, hai anh vội đưa tôi ra về nghỉ ngơi để chuẩn bị ngày mai viếng thăm Cù Lao Chàm. Trên chiếc tàu (có ghế ngồi) để ra Cù Lao Chàm, chúng tôi trả tiền gấp ba lần mà không được ngồi ghế, hỏi tại sao thì chủ tàu nói vì là người nước ngoài, mặc dù người trong gia đình và chủ tàu là chỗ đã quen biết nhau. Khi trở vô lại bờ, chúng tôi hỏi giá cả trước, nhưng lúc tàu ra giữa biển họ thâu tiền cũng bị tăng giá ngang xương và còn “chém” thêm một khoản tiền của ba người Việt trong nội địa đi cùng cũng lấy theo giá của người nước ngoài. Thấy chuyện vô lý ông người Việt ở nội địa tức giận la lớn. Số hành khách trên tàu xầm xì Chủ tàu quê quá trả lại, nhưng vẫn “chém” ngọt xớt của Việt kiều. Không phải khách nước ngoài mà chính khách du lịch ở trong nước cũng bị “chém” vô tội vạ, Tiền giữ xe phải trả 20 ngàn đồng thay vì hai ngàn đồng một chiếc. Còn đi taxi thì họ chạy vòng vo, biết vậy mà không làm sao tránh được . Mười ngày ở ĐàNẵng tôi chuẩn bị ra Hà Nội mà tôi đã từng được biết qua sách báo. Lòng rất nôn nao…Để tránh bị “chém” một cách vô tội vạ trong chuyến đi Hà Nội, tôi mua trọn gói chuyến du lịch cá nhân từ Đà Nẵng, Hà Nội bằng máy bay. Bước ra khỏi phi trường Nội Bài đã có người của hãng du lịch đón chúng tôi tại cổng và đưa thẳng ra vịnh Hạ Long. Ra khỏi phạm vi của phi trường, đường ra vịnh Hạ Long chỉ một con đường đi thẳng. Hai bên là đồng quê và những ngôi nhà nghèo của nông dân, có vài ba căn nhà cao chen kẽ được xây hai, ba tầng, bề ngang nhỏ chừng năm thước, không thấy nhà nào rộng lớn xây cất theo như trong Nam. Thỉnh thoảng thấy bên lề đường tấm bản ghi “Mèo xuất” và “Ô tô đỗ” tôi hỏi anh tài “Bắc kỳ nho nhỏ” thì được giải thích “Mèo Xuất” là quán ăn có món thịt Mèo! “Ô tô đỗ” là có chỗ đậu xe . Đúng là Bắc kỳ. Kỳ cục… Con đường đến Vịnh Hạ Long chúng tôi ghé Hải Dương mua bánh gai và bánh đậu xanh, hai món này đặc sản tại đây. Bánh gai thì chẳng có gì đặc biệt, họ gói lá chuối dày đặc, bên trong bánh mỏng tí tẹo, còn bánh đậu xanh từng miếng nhỏ trong hộp, vừa lấy ra thì đã nát tan trước khi cho vào miệng. Suốt con đường cách 10 phút có bản để “Thịt Chó” và “Mèo xuất”. Quán thịt Chó nhiều hơn là quán thịt Mèo . Khách sạn Vân Hải nổi bật nằm ngay trên cảng du lịch, vì cao hơn các khách sạn khác. Khách sạn có các nhân viên đứng trước cửa, khi có khách đến họ ra mở cửa xe và mang hành lý đến tận phòng. Đứng trên tầng lầu 11, tôi nhìn thấy rõ dãy núi phía trước thuyền lớn có, nhỏ có trôi trên sóng nước mà ngày mai tôi sẽ lên thuyền ra viếng thăm những dãy núi nơi đó. Sáng hôm sau, hai chị em ăn điểm tâm theo kiểu buffet, nhân viên phục vụ rất chu đáo. Phòng ăn trang hoàng đúng theo tiêu chuẩn, bàn ghế đẹp, lịch sự. Đa số khách du lịch là người Nhật. Riêng hệ thống máy lạnh khách sạn ở VN hầu như mọi nơi đều giống nhau, ra khỏi phòng, cửa đóng, tự động máy lạnh tắt. Về, mở cửa, máy lạnh chạy. Đi chơi buổi trưa nắng cháy, muốn chui vô phòng cho mát, mát đâu không thấy chỉ thấy căn phòng nóng hừng hực, phải chờ 20 phút sau mới mát . Tivi ở khách sạn này chỉ có ba đài thôi, ba đài đều thuộc về của quân đội nhà nước, ngoài ra không mở được đài nào nữa. Khách sạn cũng không có máy vi tính, không như các khách sạn tư nhân ở Sài Gòn. Khi biết mình đã“nằm” trong tours du lịch của nhà nước, tôi lo sợ những nguy hiểm chực chờ, nên khi thuyền ra giữa sông Hạ Long, tôi dặn dò thằng em tôi nói năng cẩn thận. Tôi cứ phập phồng sợ bị “gài bẫy” bất cứ lúc nào. Sáng sớm trong sương trên sông Hạ Long, trăm chiếc thuyền đổ ra biển, thuyền tôi thuộc loại thuyền nhỏ, đi du lịch cá nhân như vậy không vui bằng đi tập thể. Aên trên tàu chúng tôi cũng chỉ có hai người. Biết vậy, ra Hà Nội đi theo tours giá rẻ mà lại vui hơn. Chưa có kinh nghiệm đành vậy thôi. Hạ Long như bức bình phong che chắn sừng sững trong lớp sương mờ trên sóng nước, từng cánh buồm chập chờn giữa biển, không gió chướng, không mưa rơi. Động Thiên Cung, trong vẻ đẹp lung linh của các rặng đá thiên nhiên trong hang núi. Núi này không có bãi biển, khi tàu cặp bến có chiếc cầu đi thẳng đến hang động. Trong núi còn có năm, sáu hang động khác nữa. Chỉ có động Thiên Cung là chính vì có vẻ đẹp huyền bí. Khi đoàn người du lịch vào hang động kế bên có vẻ hoang dã hơn thì những con dơi to, đen kêu chiêm chiếp đập cánh bay ra... Sau khi xem Thiên Cung động, chị em chúng tôi lên huyền lướt sóng qua một hòn đảo khác, đảo này nằm ngay giữa biển nơi đây có bãi biển để tắm, nhưng chỉ có một khoảng đất nhỏ bao bọc quanh hòn đảo, đếm vài bước là xuống nước. Tại nay có quán nước, có cửa hàng bán đồ lưu niệm, tôi mua một chuổi hạt trai với giá 35 đô, thay vì 25 đô trong phố, còn người bán rao dọc đường chỉ 5 đô thôi (tôi mua bị hố). Có bãi biển nhưng ít người xuống tắm vì ghe nhỏ bán hàng rong đậu dưới bến khua chèo nên nước đục. Khách du lịch đa số là dân bản xứ họ từ Sài Gòn, Nha Trang vân vân. Hôm nay sao thấy có vài người da trắng, chỉ toàn người da vàng ở nước ngòai, hình như họ là dân Đại Hàn, Tàu hay và Nhật chi đó. Nước đục và rác trôi dưới biển, tôi chỉ bước xuống cho mát chứ không tắm, thằng em họ kêu lên bờ để tháp tùng với đám du khách ngoại quốc Á Châu trèo lên đỉnh núi cao . Một ngày lênh đênh ngoài vịnh Hạ Long, tôi không có cảm giác hứng khởi rạo rực trong lòng, thằng em tôi cũng vậy. Hay là tôi có quá nhiều ấn tượng về vịnh Hạ Long qua sách báo ở hải ngọai, hoặc là tôi đã đi qua một Hòn Cù Lao Chàm thơ mộng, với biển xanh mênh mông bãi cát trắng mịn thiên nhiên, nên khi nhìn thấy vịnh Hạ Long và hang động Thiên Cung trang trí những ánh đèn nhiều màu sắc trong các khe núi làm tôi bớt đi cảm xúc chăng ? Buổi tối chúng tôi viếng đảo Tuần Châu. Nơi đây họ trang trí và để nhạc trong các hàng cây theo nhạc điệu Trung Hoa. Tôi hỏi anh tài xế có phải đảo này do người Tàu thành lập ? Anh tài xế nói người đề xướng thắng cảnh đảo Tuần Châu này thành nơi du lịch là cá nhân của một người Việt gốc miền Nam. Giữa rừng có một ngôi nhà màu trắng, xây theo kiến trúc của Ý. Bên trong treo các ảnh thời chiến tranh trước năm bảy lăm, và hình ảnh các tướng lãnh trong Đảng. Hai chị em tôi đi vào trong tòa nhà trắng chưa hết một phần ở hành lang, mồ hôi đã chảy rân rân trong lưng như con giun bò từ trên xuống dưới. Bước vào ngôi nhà triển lãm, bịt bùng, hừng hực nóng như lò lửa, tôi cảm thấy ngột ngạt đến khó thở. Hai chị em tôi vội vàng bước ra. Quái! ban đêm giữa hòn đảo mà trời im gió lặng thế này ? Mồ hôi ra như tắm, vừa rít vừa mệt làm tôi buồn ngủ vô cùng. Khiếp, du ngoạn gì nóng nực khổ sở quá vậy nè ! Mệt, làm tôi bước đi không vững... Qua hôm sau anh tài xế đưa chúng tôi đến Nhà Hát Lớn ngay trung tâm phố Hà Nội, và hẹn chiều sẽ đến đón. Từ Nhà hát chúng tôi đi bộ đến hai bờ hồ này không xa lắm. Hồ Hoàn Kiếm và Văn Thánh kề sát bên hồ Trúc Bạch. Giữa thành phố có “nước xanh liễu rũ” rất thơ mộng nhìn mát lòng khách giữa cơn nóng hiu hiu buổi trưa. Liễu rũ trên mặt hồ năm tháng rơi. Nước xanh không thấy chỉ thấy nước hồ sền sệt, màu xanh của nước đã ngã màu lục thẩm, liễu rơi đầy năm tháng không vớt nên nước hồ đã đổi màu, nhìn xa xa cảnh hồ đẹp lắm, đến gần thì cảm giác đẹp bớt đi. Băng qua con đường là đến phố Hàng Điếu, Hàng Đào, Hàng Gai, Hàng Trống, Hàng Gà, Hàng Nón, Hàng Bông, Hàng Hòm v.v...Trên các con đường, đường nào, tiệm nấy cũng nhỏ hẹp. Phía trên để ở, phía dưới làm nơi buôn bán. Khách nước ngoài, khách nội địa, dân của địa phương qua lại tấp nập trên những con đường buôn bán chính. Ban đêm trên con đường này, khi cánh cửa các gian hàng khép lại, có đủ loại quán cóc lộ thiên ngay bên lề. Có người chỉ cần một cái bếp nhỏ liêu xiêu bên con hẻm cũng làm ra tiền, họ nấu món gì đó, khi khách ngang qua mùi hành tỏi bay ra làm hấp dẫn người đi đường. Suốt con đường Hàng Điếu chỉ nhờ vào đèn đường xe rọi sáng. Khách ngồi trên cái ghế sát mặt đất, nhờ đèn xe chạy ngang qua tôi thấy dưới đất có một cái dĩa những cây tăm cắm trên bánh hay thịt gì đó. Bên lề đường, có những khúc xương và giấy ngổn ngang dưới mặt đất (hình ảnh này Sài Gòn cũng thấy). Hai người ngồi chồm hỗm ăn một dĩa, mà ba, bốn người ngồi ghế một dĩa cũng có. Tôi có cảm tưởng là dân ở đây không quan trọng đến bụi bặm, ruồi muỗi, nóng nực mà chỉ chú trọng đến cái thú ăn đêm là chính. Tôi có ấn tượng đẹp về Hà Nội trong văn chương “Ba mươi sáu phố phường”. Hôm nay, nhìn một ba mươi sáu phố phường “Hà Nội vắng những cơn mưa”, hay “hoa sữa thôi bay” trong bụi mờ vội tan ngay lòng như cục nước đá giữa buổi trưa hè. Tôi cố tìm một dáng Hàng Đào, Hàng Giấy, Hàng Bông thơ mộng, nhưng có gì khác đâu ngoài những gian hàng và những đường dây điện thoại chằng chịt lơ lửng trên không gian… Chị em tôi ngủ tại khách sạn nằm gần ga xe lửa. Đang trong giấc ngủ ngon khoảng ba, bốn giờ sáng đã nghe tiếng còi xe lửa tru tréo đánh thức. Trong giấc ngủ nửa mê nửa tỉnh, chị em chúng tôi cứ chập chờn cho đến sáng. Thật không có gì bực cho bằng, khi giấc ngủ không được “trọn gói”. Chấm dứt những ngày ở Hà Nội, anh tài xế đưa chúng tôi trở ra phi trường Nội Bài. Anh để nhạc ngoại quốc, tôi yêu cầu mở nhạc Việt, anh đổi sang nhạc Việt và mở rất nhỏ, nhưng tiếng ca réo rắt chát chúa thật khó nghe, tôi nhăn mặt, anh ta đổi sang nhạc khác thấy dễ chịu và hợp với phong cảnh đồng quê hơn. Trên chuyến bay Vietnam Airlines từ Hà Nội vào Sài Gòn để chuyển máy bay Air France về lại Pháp, tôi ngã người ra hết phía sau, nhắm mắt hít thở không khí êm đềm trên không gian trong sáng. Tôi nhớ lại những gì đã qua. Nhớ bà chủ khách sạn và mấy cô dọn phòng làm tôi thật ngại ngùng lúng túng khi đưa ly cà phê cho tôi bằng hai tay. Nhớ con cháu dâu khúm núm cúi khom người khi tôi gọi nó đến ngồi ăn cơm. Trời! làm kiểu gì kỳ vậy ? đừng làm thế làm tôi ngại ngùng lắm! Nhớ người quét đường mặc, hình ảnh những người nằm ngủ trên ghế bố bên vĩa. Nhớ lúc đi cho đến lúc về, buồn vui lẫn lộn. Buồn là không thấy ngôi nhà thương yêu ngày xưa và mảnh vườn bây giờ thành quán cà phê trong có máy lạnh của một người nào đó lạ hoắc. Về, muốn nhìn ngược lại thời gian nơi mình sinh ra và lớn lên, nơi mà ngày trông cho mau tàn, đêm mong chóng lớn, nhưng nơi ấy không còn nữa. Tôi bùi ngùi nhìn mộ phần người chết vẫn chưa được yên, những ngôi mộ bên nội tổ và bố mẹ tôi sắp dời đến một phần đất nào đó, mà đã ba lần đã giải tỏa rồi. Vui, gặp anh chị em cô bác gần xa, và một thị xã Đà Nẵng quê hương tôi đã một chiều hướng thay đổi. Tôi không nói đến Sài Gòn, Hà Nội vì hai nơi này với tôi vẫn còn xa lạ vì tuổi thơ tôi chưa có ý thức cảm xúc. Tôi ở Sài Gòn, Hà Nội như người du khách phương xa. Những ngày ở Hà Nội chị em tôi không dám ăn một thứ gì , mâm cơm ở khách sạn dọn lên còn nguyên, chúng tôi chỉ ăn chén cơm chan tí tương xì dầu cho qua cơn đói, vì nghĩ đến các dĩa thịt trên bàn sợ có món thịt .. . chó và món “mèo xuất” pha trộn. Sài Gòn chẳng có gì để lưu luyến tôi trở lại, thành phố sống động nhưng ồn ào. Tôi muốn trở lại Pháp ngay sau khi đến Đà Nẵng, nhưng tháng tám có nhiều du khách đến VN không còn chỗ, nên tôi tìm cách đi chơi, chờ đến hết ngày để về và những ngày ở trên biển cát làm tôi có nhiều cảm giác thú vị, vui thích. .. Việt kiều về Việt Nam thăm gia đình, thăm bạn bè hỏi ra ai cũng có tâm trạng như nhau. Chuyện quà cáp anh em trong gia đình, người nói nhiều kẻ chê ít, phàn nàn, giận dỗi, ôi thôi là bực mình ! Việt kiều ngu ngơ như tôi rất sợ “Việt...gian”. Còn nhà nước dễ dãi với Việt kiều, là để thâu ngọai tệ cho nhiều, đó là về mặt tâm lý chính trị kinh tế, nhưng đừng tưởng bỡ mà không cẩn thận, nói năng cẩu thả sẽ biết hậu quả ngay . Tôi cảm thấy rất hạnh phúc khi về lại căn nhà thân yêu của mình bên dòng sông Seine trong vùng ngoại ô Paris. Bỗng tôi mỉm cười bâng quơ, mơ màng đâu đây những hình ảnh thân thương của quên hương sau một chuyến du lịch vừa hồi hộp vừa lo xa với ít nhiều kỷ niệm vừa qua.
Bích Xuân
|