Notre
Dame Paris
Bích
Xuân
Notre-Dame
Paris là một
kiệt tác về kiến trúc cổ ngay ở trung
tâm Paris
và cũng nằm trong tim của người dân Paris.
Nhà
thờ Notre-Dame Paris đã biến thành một huyền
thoại sống mà người ta không ngừng khám
phá
trở lại những khía cạnh mới qua những
thời gian và không gian khác nhau.
Đây là cội nguồn
của biến đổi sự hứng khởi cho
họa sĩ cũng như văn thi sĩ. Notre-Dame Paris là
một hình thức vinh danh đức mẹ của chúa
Jésus Christ. Nhà thờ xây lại
trên dấu vết của
một nhà thờ cũ nhỏ, được xây bởi
vua Clovic để giữ lời nguyện với
Đức mẹ khi đứa con trai tên là Childebert
khỏi bệnh.
Notre-Dame
Paris đã tham gia vào nhiều thăng trầm cũng như
biến động lịch sử của kinh đô ánh sáng.
Trước tiên nơi đây là một cái
đền
gallo-romain (cấu trúc giữa Pháp cổ và
La Mã) sau đó
biến thành đền basilique chrétienne (đền
công giáo)
sau cùng biến thành một nhà thờ
có lối cấu trúc
theo kiểu la tinh. Ba lần thay đổi chưa yên, và
lần thứ tư là Notre-Dame Paris ngày nay, do
ông Maurice De
Sully đứng trông nom với sự hợp tác hai kiến
trúc sư Jean de Chelles và Pierre Montreuil. Bắt
đầu xây
cất năm 1163 chấm dứt năm 1300 ( công trình
xây
cất Notre-Dame Paris 137 năm ) Có chiều dài 130,
chiều
ngang 48 thước, chiều cao 35 thước, có thể
chứa được 6500 người.
Notre-Dame
Paris là nhà thờ lớn cuối cùng
có những
đường nét cũng như ý kiến cấu trúc
mới so với thời đại đó. Chẳng hạn
như những vòng cung đá tỏa ra nhìn xa
xa như
những giải lụa đẹp mắt, và để kéo
dài tuổi thọ của nhà thờ, nước mưa hứng
từ những máng xối, được chảy qua trong
miệng các hình làm bằng tượng chung
quanh, để
phun nước ra xa chân tường ( khỏi bị hư
hại nền móng dưới chân tường với
thời gian ).
Phía
mặt tiền nhà
thờ có một cấu trúc thăng bằng và uy
nghi. Ba
cửa lớn không bằng nhau, cửa giữa cao nhất
và rộng hơn hai cửa kia. Vào thời trung cổ
người ta thường dùng sự mất cân
đối này để giảm sự đơn
điệu buồn tẻ của những mặt tiền
lớn. Những cửa sắt lớn có những
tượng nổi lên một nền vàng tượng
trưng cho quyển thánh kinh bằng đá qua
hình ảnh
thánh tích. Sáu cánh cửa
lớn được trang trí
bằng những cốt sắt uốn nắn tuyệt
đẹp và những hình tượng các
thánh điêu khắc
trên cạnh những vòm cong. Bên trong,
ngay tại giữa
thánh đường, hai hàng cột với vòm trần
trên
cao, tượng trưng cho lối kiến trúc Pháp
vào
thế kỷ 13 : đường nét thanh thóat nhưng
táo
bạo với những trạm trổ tinh vi. Để soi
sáng phía trong nhà thờ người ta
làm rộng những
cửa sổ. Đỡ những tháp là những trụ
đường kính lên đến 1, 6m . Những vụ tu
bổ đòi hỏi rất nhiều công phu theo cách
làm
hồi xa xưa, và cây đàn orgue được cấu
tạo bởi 7800 ống đồng, kích thước khác
nhau , phát ra một thứ âm vang ngân xa
trầm bổng, làm
dịu lại lòng người .
Trên
khung
cửa lớn ở ngòai mặt tiền nhà thờ, có
một hàng 28 bức tượng hiện thân của
những vua Juda và của Do Thái. Năm 1793
nhóm
cách mạng
lâm thời lật đổ vương quyền, họ
tưởng những tượng đá trên là biểu
tượng của vua chúa Pháp, nên ra lịnh
đem
xuống chặt đầu trước sân nhà thờ, và
đập phá một số tượng khác nữa. Sau
đó được ông Viollet le Duc sửa chữa lại
một số hư hại về kiến trúc cũng
như một số tượng, và người ta không
khỏi ngạc nhiên khi một số tượng bằng
đồng có khuôn mặt na ná giống
ông.
Không lẽ
đem những hình tượng có khuôn mặt giống
ông
nấu ra đúc lại, nên người ta vẫn
để nguyên. Xét cho cùng thì
chuyện
này cũng vô thưởng
vô phạt vì hình tượng đã đạt
được những mỹ thuật cố hữu
của nó. Sự trùng tu gặp rất nhiều thuận lợi
nhờ sự thành công của cuốn tiểu thuyết
tình
cảm Notre-Dame de Paris của đại văn hào Victor
Hugo. Cũng trước mặt tiền, phía trên cửa
giữa nhà thờ, có một cửa sổ tròn bằng
kính
được ghép đủ màu sắc như một hào
quang cho tượng Đực mẹ và chúa hài
đồng,
hai bên có hai thiên thần canh
gác, có
đường kính 10
thước và
là cửa sổ lớn nhất mà
người ta dám nghĩ và làm
vào thời
đó. Hai bên
cửa sổ tròn bằng kính ở giữa là hai
tháp:
một tháp nhìn về hướng Bắc, một tháp
nhìn
về hướng Nam hai tháp này có chiều cao
là
69 m. Tháp
Bắc (bên trái) có 402 nất thang, muốn
được
leo lên 402 nất thang phải trả 6 euro 10 dưới 17
tuổi thì miễm phí. Tháp Nam
(bên mặt) để một
cái chuông lớn tên là
Emmanuel cân nặng
13.000 ký và một cây
để rung chuông nặng 500 ký
.
Vào
thế kỷ mười bảy chuông cũ
được đúc lại, khi đánh lên rất thanh
thóat như tiếng nhạc tạo thành âm thanh
của nót
Fa#, lý do, là khi nấu đúc
lại, chuông mới có
chất vàng và bạc trong đồng từ những
vật trang sức của những người dân Paris
đã tự nguyện đóng góp vì
đức tin. Năm
1949 nhà thờ lập lại truyền thống cũ: hàng
năm vào tháng Năm mỗi một nhà kim
hòan tại Ba Lê
sẽ gởi tặng nhà thờ một món quà
quí giá về
nghệ thuật .
Ngay
trước khi hòan thành Notre-Dame đã
có những sự
kiện lịch sử và chính trị xẩy ra nơi
đây. Saint -Louis đã để lại đây một
vương miện biểu tượng bằng gai vào
năm 1239 . Vào năm 1302 ông Phillipe Lebel
đã tổ
chức long trọng làm lễ giới thiệu quốc
hội của vương quốc. Vào năm
1431 Henry VI lên
ngôi vua Pháp được làm lễ tại
đây. Sau đó
nhà thờ tổ chức những vụ tang lễ, hôn
nhân
cũng như ân xá. Thời xa xưa, đạo giáo
có
một uy thế rất lớn trong xã hội, nên bất
cứ sự kiện gì quan trọng, đều phải có
sự thông qua bằng một lễ lớn của nhà
thờ, như một hình thức hợp thức hóa.
Năm 1455 nhà thờ làm lễ phục hồi thánh
chức
cho nữ anh hùng dân tộc Jeanne
d’Arc và đức giáo
hoàng Pie VII làm lễ lên ngôi
cho Napoléon ngày 2-12-1804.
Cả
hàng triệu tín đồ trước đây cũng như
bây giờ đi viếng thăm Notre-Dame Paris như một
hình thức hành hương. Đến, để tìm
hiểu và thấm nhuần những nét thiêng
liêng của
nơi đây trong những âm thanh không
rõ nét của
thường lệ. Một trong những người đó,
nhà viết kịch và thi sĩ Paul Claudel (1868-1955)
đã quì
gần một cột trụ lớn trong nhà thơ, xin
nhập đạo một chiều Noel năm 1886 .
Từ
lối kiến trúc thời trung cổ có nền
văn minh đi trước lối kiến trúc hiện
đại ngày nay, Paris hiến cho đời một
kiệt tác mà thời gian và những biến cố
lịch
sữ không làm ảnh hưởng gì đến những
kiến trúc đó. Cho đến bây giờ, kiến
trúc
đó vẫn tỏa sáng mà bất cứ ai, thuộc
mọi tầng lớp khi ngắm nhìn cũng phải
trầm trồ thán phục.
Bích Xuân