Nguyệt san Nghệ Thuật (Canada)
"Trước Khi
Mùa Xuân Đến" của Bích Xuân
Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên
Ngày
9 tháng 9 tại Asia-Palace bắt đầu lúc 19 giờ...Tác phẩm này có hiệu quả gây hấn
ngay từ giây phút đầu một luận chiến (une controverse) dính dáng mật thiết đến
sự nghiệp thơ và gia tài văn học của tác giả. Bích
Xuân phải chăng là một nhà văn nữ đã
áp dụng một lối viết riêng biệt trong làng
văn nghệ hải ngoại ?
Bích
Xuân với «Trước Khi Mùa Xuân Đến»
là một nhà văn tiêu biểu hay không một học
phái văn chương Việt Nam chuyên môn về luyến
ái (érotique) hay về tiểu thuyết
tà dâm (roman pornographique) ? Ta biết rằng ngoài
10 bài bút ký, «Trước Khi
Mùa Xuân Đến» gồm vọn vẽ 12 truyện ngắn mà
trong đó chỉ có 2 truyện : Nửa Đêm
Chọc Tức và Một Hai Ba Bốn là có thể xếp
vào hạng truyện có đôi lúc diễn tả
tình yêu xác thể một cách thực tế. Ai cũng
phải công nhận là đối với xã hội
Việt Nam, sự lột trần xác thể của người đàn bà do
một nhà văn phái nữ là một
điều cấm kỵ tuyệt đối ; thế mà BX đã bỏ qua một
cách dễ dàng, như một sự thử
thách ! Về mặt thơ (BX trước hết là một nhà thơ),
bài «Con Mèo» trong thi tập
«Bây Giờ Em Vui» chẳng hạn là một tỉ dụ thơ
khiêu gợi luyến ái không làm sao
chối cãi được, nhưng không có gì nhơ bẩn :
Ước gì em biến thành mèo,
Để em cào xé leo trèo trên anh ... vân
vân.
Ta
có thể nói - bất luận tỷ lệ (toute proportion
gardée) - là BX có nhiều vần thơ
tinh khiết hơn Baudelaire, tác giả «Les Fleurs du
Mal» (1857) hay Verlaine, tác
giả « Les Fêtes Galantes » (1869). Trở lại vấn đề
«Trước Khi Mùa Xuân Đến » ta
hãy lắng nghe đoạn sau trích từ « Nửa Đêm
Chọc Tức » : Nhớ đêm Noel, tôi nằm
vật ra tóc tai rối bời, để chàng đổ rượu nửa ngực,
trên thân xác trần truồng,
nuột nà mịn tăm...Rồi như con ngựa tinh khôn, chàng
đưa răng cắn vào...Tai, cổ
tôi nóng hổi như đêm hừng hực, âm vang như
những que tăm, châm chích nghe rợn
cả người... Bối cảnh soạn sửa cho giao cấu thực sự giữa hai tình
nhân mà ta
thường thấy nhiều lần trên đài truyền hình Âu
Tây ngay trong những giờ đầu đêm
(heures de grande écoute) đã được BX diễn tả một
cách rõ ràng với nhiều hình
ảnh khao khát dục vọng ».. qua lời văn lãng mạn
(như nàng đã viết trong Thiếp Mời),
chát bỏng mang đậm màu sắc yêu thương, cũng như
Emmanuelle ARSAN, tác giả
L’anti-vierge Emmanuelle... với lối văn khiêu gợi
xác thể một cách trắng trợn
(mặc dầu đầy tài năng) đã gây mối ác
bình (causer du scandale) trong xã hội
luân thường đạo lý của Pháp trong những thập
niên qua. Thêm đoạn sau (cùng
trong một chuyện) có thể nói là còn
táo bạo hơn nữa : Thỉnh thoảng như xuất quỉ
nhập thần, tôi thò tay vào quần chàng
đùa nghịch. Trên da non âm ấm, mấy ngón
tay như con sâu bò lung tung, trên bụng, trên
rốn... tác giả. «Trước Khi Mùa
Xuân Đến » đã quên hết sự thơ ngây của
một nhà thơ nữ cần phải giữ bề ngoài
những bẽn lẽn thẹn thùng. Nhưng cuộc tình duyên với
người láng giềng trên lầu
cùng một khu nhà cửa không ngày mai,
vì Raymond mê say làm việc (nghề thầu
khoán xây cất nhà)... chàng đang từ từ, tiến
dần đến sự bất lực, của sự cọ sát
cơ thể... Chàng nằm trơ trơ, trầm tư u-mặc như khúc gỗ...
» Cuộc giao kết giữa
người thiếu phụ da vàng với ông Tây láng
giềng đến đây là chấm dứt : Thế là
xong coi như là chuyện xa lạ với mình. Chỉ còn lại
những dư âm rắm rối, rồi
cũng sẽ bay theo ngày tháng nhạt nhòa.
Một Hai Ba Bốn... kể lại một gặp gỡ trên máy bay giữa
Sophie (Xuân) gái Việt với Claudel Nabonne (người
Pháp). Chàng cư ngụ tại Mỹ,
qua Pháp thăm mẹ ở Normandie, trong lúc nàng ở
Paris. Gặp nhau lại ở đô thành
Ánh Sáng và trong một đêm dạo chơi bên
bờ sông muôn thuở : Claudel ôm chặt tôi
trong lòng. Tôi run rẫy, trời đất như ngưng đọng,
sông Seine như con ốc đang
chìm giữa biểná; Tôi rơi vào thung lũng
muôn ngàn cỏ dại đê mê, thấm dưới làn
da mịn mỏng manh. Claudel chuyền hơi ấm, trên môi,
trên lưỡi, trên mắt
tôi...Biết chàng (nhờ một sự tình cờ) có vợ
nhưng dấu nàng, Xuân từ hôm ấy
không trả lời điện thoại cho Claudel mặc dầu biết chỉ còn
hai ngày thôi chàng phải
trở lại Hoa Kỳ. Một buổi sáng, Claudel bấm chuông tại
nhà và cho Xuân biết rằng
vợ chàng đã mất cách đây 5 năm trong một tai
nạn xe hơi lỗi tại chàng...“Tôi sà
vào lòng Claudel như đứa trẻ mới bắt đầu yêu.
Claudel đang dìu tôi từng
bước...Một. Hai. Ba. Bốn. Bước...đến giường. Claudel đang nghe
tôi khe khẽ,
nhưng tôi thì không biết tôi đã
nói gì…
Thêm một câu hỏi quan trọng : Chúng ta có nên lên án thiêu
đốt nữ sĩ BX đã viết hai bài có tính chất luyến ái trong một cuốn sách gồm tất
cả 12 truyện ngắn và 10 bút ký, như một bà phù thủy dưới thời Trung Cổ ? Trong
truyện Trước Khi Mùa Xuân Đến (mà cũng là tên của tập truyện) đề cập đến cặp vợ
chồng Pháp Việt với 4 đứa con (hai trai hai gái), trạng huống của gia đình thật
là đặc biệt : Patrick, người Pháp, chấp nhận cho Trang là vợ chính thức của
mình tiếp tục (vì sinh kế) đi làm vũ nữ ban đêm. Hai vợ chồng ở cùng chung một
nhà nhưng không nằm một giường. Một đêm, (tôi xin trích) : Không thể dằn được
nữa trong niềm hoang tưởng lạc thú, đi đến kiệt cùng của khát khao... Patrick
vùng đứng lên, đến ôm chặt Trang vào lòng, rồi vật nàng xuống hôn tới tấp. Hai
tay nàng bị khóa kín không vùng vẫy được, nàng bị đè bẹp như con thằn lằn.
Patrick cảm thấy còn yêu vợ nồng nàn, như những đàn ông khác từng yêu Trang...
Đó chẳng qua là ý niệm và hành động
chính đáng của một
người chồng đối với vợ; ngay cảnh tượng tác giả vừa tả lại
trên cũng không có
gì đáng nói về mặt luân lý ! Trong
"Bao Giờ Cũng Chứa Chan "là một
truyện (hay tự truyện), tác giả tường thuật cuộc đời của một
cô gái đẹp tên là
Xuân Ly trong một gia đình 7 con với một người cha hay
áp bức mẹ nàng cho nên
bà thường âm thầm khóc một mình mỗi
đêm khuya. Lẽ dĩ nhiên là nàng thương mẹ,
oán ghét cha, cho nên nhận lời cầu hôn của
Phúc để thoát ly gia đình. Nhưng
Phúc có máu nghiện cờ bạc, ma túy,
nên nàng bỏ chồng một năm sau, trở về nhà
cha mẹ với một đứa con gái là Quế Trâm. Từ
đó, Xuân Ly gặp chú Tường và chú
Tường bắt đầu yêu cháu Xuân Ly: Chú Tường
ôm hôn Xuân Ly thật lâu, nàng ghì
chặt chú, môi luôn luôn mấp máy,
tràn huyết quản rân rân, và cảm giác
thú vị
hiện rất rõ...Bây giờ nàng đã yêu
chú Tường, thì lại xa hẳn chú. Vì
“chú Tường
quyết định xa nàng” để tránh khỏi tội loạn
luân. Còn chuyện tình nào tươi đẹp
bằng sự chia ly rất hợp lý này ?
Tình mẹ con được tác giả lược thuật trong ba bài :
2 truyện
"Mẹ Tôi" và "Con Dưng Ơi" và 1 bút ký
:
"Véronique", rất ý nhị và nhớ nhung. Hai
bài cảm động nhất làù: “Mười
Một Giờ Ba Mươi" và “Nỗi Niềm” Người Việt khắp nơi,
ai cũng nôn nao theo dõi
vụ án của anh. Rồi qua sáng hôm sau
ngày...em được nhìn rõ hình anh trên
Internet, giữa khoảng trong xanh mây trời ve vuốt. Anh trong bộ
quần áo nhà tù
màu vàng nghệ, bước ra khỏi trại giam. Anh gầy đi rất
nhiều, nhưng rắn rõi
cương quyết, ánh mắt bình thản, tự tin...Ai cũng
đoán biết người yêu của BX ở
đây là một vị anh hùng của đồng bào hải
ngoại, một chàng phi công can đảm hiện
bị giam giữ tại Thái Lan. Bức thư gửi cho người yêu kết
thúc như sau : Anh,
mình nhớ nhau, là mình như tiên anh nhỉ ?
Tình yêu mầu nhiệm quá phải không anh
? Nhất là ai đó đã chi phối những suy nghĩ bồi
hồi, tâm trạng kẻ đang yêu một
cách đậm đà như em. Anh, đêm nay em đang nghĩ đến
anh bên bàn rượu, kề bên góc
ngọn đèn hoa kín mít mà nghe rất ồn
ào trong em “cơn say suốt sáng, trận cuồng
thâu đêm” (San Diego, 29-04-2001). Thư này
Bích Xuân gửi cho người yêu từ San
Diego (Hoa Kỳ) sau khi tham dự buổi lễ kỷ niệm Đệ Thất Chu Niên
Nguyệt san Nghệ
Thuật trong đêm mồng 7 tháng 4 tại St-Hubert
(Québec,Canada), mà nàng đã tường
thuật lại trong bút ký “Tình Nghệ Sĩ Tại
Montréal” Trong hai tuần ở Montréal
tôi và ông già Trịnh Hưng ngày
nào cũng được đưa đi chơi...Và đến ngày phải từ
giã Montréal : Tôi sẽ đổi máy bay tại
Toronto để qua Hoa Kỳ. Ông Trịnh Hưng bay
thẳng về Pháp. Tôi không biết bao giờ sẽ trở lại nơi
đây nữa, để đứng dưới ánh
đèn sân khấu, hát những bài ca nhẹ
nhàng, tha thiết cảm động trong “Đêm Nguyện
Cầu“,“Một Cõi Riêng Ta“,“Cảm
Ơn“...Tôi quay nhìn ngược lại thành phố,
thành phố
dần dần thu ngắn lại, đang xa dần trong đám sương mù
tím úa, và cổng máy bay
nhấp nhóa sáng lòe...
Trong những bài bút ký
khác, phần đông Bích Xuân kể lại những cuộc
tuần du ra mắt bốn tập thơ xuất bản
từ năm 1994 đén 1998 và CD “Có Những
Chiều…” tại Pháp, Đức, Na-Uy, Canada và
nhất là Hoa Kỳ, tất cả 22 lần: Ra mắt tại Mỹ là nhiều
nhất (theo nàng viết
trong bút ký “Về Một Nơi Ở Trọ”), hơn 10 tiểu
bang trong nước. Có những nơi tôi
trở lại lần thứ hai, riêng tại Orange County (Cali) thủ đô
tị nạn của người
Việt, có khi tới ba lần ra mắt trong một tháng. Tôi
có điều kiện để ra mắt
sách, và tôi cũng thích về văn nghệ. Việc ra
mắt sách là một cái cớ, để tôi có
dịp đi ngao du rong chơi đó đây. Tôi làm thơ
xoàng thôi, tôi tự biết thế. Không
ngờ mình may mắn, được các bạn yêu quí,
nên những buổi ra mắt thành công dễ
dàng...Trong 10 bài bút ký hoặc hồi
ký, BX đã kể lại những chuyến đi với một
hành văn lưu loát, nhẹ nhàng trừ phi (tôi
muốn nói chung cả tập truyện) vài chữ
về tiếng Huế không đúng cho lắm, hoặc đôi chữ suồng
sã, như trong “Uncle Tom”
chẳng hạn...Mình sẽ mặc bộ quần áo nào cho ra vẻ
lịch sự, vẻ tây một chút! Chắc
là mặc jupe màu đen, ôm sát từ mông
xuống đầu gối... Hoặc lỗi xuyết tự (faute
d’orthographe) : khoái lạc viết như sương khói
biên thùy (trang 12). Để kết
luận, ta có thể nói một cách tổng quát :
phần “bút ký” hay hồi ký hay những
truyện (mà thật ra là tự truyện) là lãnh
vực mà nàng được nhiều kết quả tốt đẹp
nhất. Mặc dầu tình bạn mỗi nơi nàng đi thăm viếng
toàn rất nồng hậu, ta cảm
thấy qua những kỷ niệm rải rác khắp bốn phương, một sự buồn rầu
không thể tả : Chim bay hoài cũng sắp mỏi cánh rồi anh
ạ...Ngày 20 tháng 6 thì em mới về lại Paris...Đó là hai câu đầu của một
E-MAIL nàng gửi cho tôi từ San Diego ngày 12 tháng 5...Nàng ở lại đây để đợi ai
? Phải chăng là người yêu cuối cùng mà nay vì bổn phận đối với tổ quốc đã mất
tự do ? Đó là tất cả cái thê lương của một nhà thơ, nhà văn nữ mà sau những
chuyến đi khắp năm châu với bao nhiêu thân hữu đón tiếp nồng hậu, nhưng với
thời gian qua đã cảm giác một sự cô đơn tận cùng như tiếng kêu tha thiết của
thi hào LAMARTINE trong bài thơ L’ISOLEMENT (Cô Quạnh) :
Chỉ thiếu bóng một người
Đời ta như hoang vắng
UN SEUL ÊTRE VOUS MANQUE, ET TOUT EST
DÉPEUPLÉ !
Lê
Mộng Nguyên
PARIS,
ngày 9 tháng 9 năm 2001.